NGĂN NGỪA HÀNH VI TRA TẤN, BỨC CUNG, DÙNG NHỤC HÌNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ BẰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ

Các tác giả

  • Võ Minh Kỳ Viện Kiểm sát Nhân dân Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ
  • Nguyễn Phương Anh Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp

DOI:

https://doi.org/10.70236/tckhplvn.137

Từ khóa:

tra tấn, bức cung, dùng nhục hình, lời khai, lời nhận tội

Tóm tắt

Tra tấn, bức cung, nhục hình là các hành vi trái pháp luật bị nghiêm cấm trong hầu hết hệ thống tư pháp hình sự vì các hệ quả nghiêm trọng mà chúng gây ra. Quy định về kiểm tra, đánh giá, và sử dụng chứng cứ cần được xem như là một phương tiện, công cụ để loại trừ các lời khai, lời nhận tội được thu thập từ các hành vi trên, từ đó triệt tiêu động lực sử dụng các hành vi trái pháp luật đó. Bài viết tiến hành phân tích quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam về tra tấn, bức cung, dùng nhục hình và kiểm tra, đánh giá, sử dụng lời khai từ các hành vi đó. Đồng thời, trên cơ sở so sánh với quy định của một số quốc gia khác, bài viết chỉ ra các hạn chế của quy định hiện hành và đưa ra kiến nghị hoàn thiện

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.

Tài liệu tham khảo

[1] Terry v. Ohio, 392 U.S. 1 (1968)

[2] Bộ Công an, “Báo cáo quốc gia về thực thi Công ước chống tra tấn”, Báo cáo quốc gia lần thứ Nhất về thực thi Công ước chống tra tấn, tổ chức tại Thụy Sĩ từ ngày 14 - 15/11/2018 [trans: Ministry of Public Security, “National Report on the Implementation of the Convention Against Torture”, First National Report on the Implementation of the Convention Against Torture, held in Switzerland from November 14-15, 2018]

[3] Zhiyuan Guo, “Exclusion of illegally obtained confessions in China: An empirical perspective”, The International Journal of Evidence & Proof, Vol. 21(1-2), 2017, tr. 39, https://doi. org/10.1177/1365712716674799

[4] Jiahong He, Methodology of judicial proof and presumption, Softcover reprint of the original 1st ed. 2018 edition, Springer, 2019

[5] Võ Minh Kỳ, “Một số nguyên tắc đánh giá chứng cứ trong tố tụng tranh tụng và kiến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (359), 2018

[6] Võ Minh Kỳ và Nguyễn Phương Anh, “Học thuyết ‘quả trên cây độc’ trong tư pháp hình sự Hoa Kỳ và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5(477), 2023

[7] Võ Minh Kỳ, và Nguyễn Phương Anh, “Thẩm phán không chuyên trong phiên tòa hình sự: Mô hình của Hoa Kỳ, Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6 (362), 2018

[8] Lan Chi Le et al., “Understanding causes for wrongful convictions in Vietnam: A view from the top and the bottom of the iceberg”, Asian Journal of Criminology, Vol. 17, 2022, https://doi.org/10.1007/ s11417-022-09390-7

[9] Richard A. Leo and Richard J. Ofshe, “The Consequences of False Confessions: Deprivations of liberty and miscarriages of justice in the age of psychological interrogation”, The Journal of Criminal law and criminology, Vol. 88, No. 2, 1998, https://doi.org/10.2307/1144288

[10] Jingkun Liu, The exclusionary rule of illegal evidence in China: Theory, case, application, 1st ed. 2019 edition, Springer, New York, 2019

[11] Trịnh Duy Thuyên, Nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2021 [trans: Trinh Duy Thuyen, Internalizing the provisions of the United Nations Convention against Torture for taking statements and interrogating the accused in the Criminal Procedure Code of Vietnam, Doctor of Law thesis, University of Law Ho Chi Minh City, 2021]

[12] United States Courts, “Issue 2: Preserving Public Trust, Confidence, and Understanding,” Strategic Plan for Federal Judiciary, 2020

Các tệp bổ sung

Đã Xuất bản

20-12-2024

Số

Chuyên mục

LUẬT HÌNH SỰ

Cách trích dẫn

Kỳ, V. M., & Anh, N. P. . (2024). NGĂN NGỪA HÀNH VI TRA TẤN, BỨC CUNG, DÙNG NHỤC HÌNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ BẰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ. Tạp Chí Khoa học Pháp Lý Việt Nam, 10(182). https://doi.org/10.70236/tckhplvn.137